Các nhà khoa học nghiên cứu về giá trị năng lượng và khả năng tiêu hóa của thức ăn chăn nuôi

Các sản phẩm có nguồn gốc từ các loại ngũ cốc như ngô, lúa mì và lúa miến đang ngày càng được sử dụng nhiều trong thức ăn chăn nuôi. Nghiên cứu do

Các sản phẩm có nguồn gốc từ các loại ngũ cốc như ngô, lúa mì và lúa miến đang ngày càng được sử dụng nhiều trong thức ăn chăn nuôi. Nghiên cứu do các nhà khoa học tại Đại học Illinois giúp xác định giá trị năng lượng của các sản phẩm hỗn hợp này.

Hans H Stein, Giáo sư Khoa học động vật tại trường Đại học Illinois cho biết: “Việc xác định được các thành phần cụ thể của hy-đrát các-bon trong thức ăn chăn nuôi là rất quan trọng để xác định giá trị năng lượng của nó”.

Ông Stein nói: “Sản phẩm ngũ cốc hỗn hợp chứa nhiều chất xơ và không có thành phần tinh bột polysaccharides (NSP). Những hy-đrát các-bon này được tiêu hóa kém hiệu quả hơn so với tinh bột và cũng có thể làm giảm tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng khác. Việc bổ sung các enzim phân huỷ hy-đrát các-bon có thể giúp cải thiện khả năng tiêu hóa chất xơ và NSP, nhưng trước tiên chúng ta cần phải biết loại hy-đrát các-bon nào có trong thức ăn chăn nuôi để có thể chọn các enzim phù hợp”.

Nhóm nghiên cứu của ông Stein đã tiến hành hai thí nghiệm. Trong thí nghiệm đầu tiên, họ đã xác định các thành phần hy-đrát các-bon của 12 nguyên liệu thức ăn chăn nuôi là ngô, bã rượu ngô hạt khô với các chất hòa tan (DDGS), bột gluten ngô, thức ăn chăn nuôi gluten ngô, bột mầm lúa mì, cám ngô; lúa miến và hai nguồn DDGS từ lúa miến; lúa mì, lúa mì tấm và cám lúa mì.

Lượng tinh bột gồm 62% ngô, 69% lúa miến và 61,8% lúa mì. Các sản phẩm ngũ cốc hỗn hợp dao động từ 2,5% tinh bột trong DDGS từ lúa miến đến 22,6% trong cám ngô. Lượng tinh bột polysaccharides ở các sản phẩm này dao động từ 24,7% trong DDGS từ lúa miến đến 41,8% trong cám ngô. Loại thức ăn chăn nuôi Arabinoxylan có lượng tinh bột polysaccharides lớn nhất.

Ông Stein lưu ý: “Những kết quả này chỉ ra rằng các enzim ngoại sinh có thể thủy phân arabinoxylans có thể là hiệu quả nhất vì phần lớn nhất của NSP trong ngô và các sản phẩm ngũ cốc hỗn hợp có ngô, lúa miến và DDGS lúa miến, lúa mì và sản phẩm ngũ cốc hỗn hợp có lúa mì là arabinoxylans.

Trong thí nghiệm thứ hai, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm khả năng tiêu hóa tinh bột polysaccharides (NSP). Kết quả là gần bằng không đối với hầu hết các thành phần, điều này chỉ ra rằng pép-xin và enzim tuyến tụy không làm giảm NSP.

Trong ống nghiệm, khả năng tiêu hoá NSP dao động từ 6,5% trong cám ngô 57,3% trong khẩu phần ăn có gluten ngô.

Ông Stein nói: “Nếu lợn được cho ăn chế độ ăn có lượng NSP cao, sự tiêu hóa năng lượng sẽ giảm. Nhưng các thành phần của phần NSP ảnh hưởng đến khả năng lên men. Thành phần có nhiều NSP dễ tan sẽ có giá trị năng lượng cao hơn so với các thành phần có NSP dễ tan ít hơn”.

Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Animal Science.

Theo Bộ NN&PTNT

Gợi Ý Sản Phẩm

Phòng bệnh cho gia cầm NAVET-FLUVAC 2

NAVET-FLUVAC 2

Vắc xin phòng bệnh Cúm gia cầm

Men vi sinh xử lý nước NAVET-BIOZYM (TÔM, CÁ)

NAVET-BIOZYM (TÔM, CÁ)

Men vi sinh và Enzyme cao cấp, xử lý, cải tạo môi trường nuôi tôm, cá (giống và thịt)

Men vi sinh xử lý nước NAVET-BIO-YU 600

NAVET-BIO-YU 600

Cung cấp men vi sinh, enzym xử lý nước và đáy ao nuôi tôm

Men vi sinh xử lý nước NAVET-BIO-YU

NAVET-BIO-YU

Cung cấp men vi sinh, enzym xử lý nước và đáy ao nuôi tôm

Thức ăn thuỷ sản bổ sung NAVET-GLUCAMIN

NAVET-GLUCAMIN

Bổ sung ß-glucan và các dưỡng chất thiết yếu

Icon động, để lại yêu cầu
Dịch tả heo Châu Phi
Góc thông tin
Dịch tả heo Châu Phi
NAVET-ASFVAC